TRẦN THANH THỦY
Bạn biết tôi thỉnh thoảng dị ứng hải sản, chỉ thích dân dã quê kiểng nên sau chuyến trăng mật bạn đem về cho mấy hộp bánh quai vạc. Bạn bảo ăn để cảm nhận sự thật thà, chịu thương chịu khó và tình cảm người phụ nữ Phan Thiết gửi vào từng chiếc bánh nhỏ hình bán nguyệt.
Tôi không biết vì sao nó có tên quai vạc có thể chữ vạc trong vạc (một loại nồi to, đáy rộng, miệng loe thường dùng để nấu ăn tập thể ngày xưa) còn chữ quai thì do hình dáng giống như cái quai (tay cầm) của cái vạc nên dân gian gọi là bánh quai vạc theo hình dạng chiếc bánh. Thật khó khăn tìm thời điểm xuất hiện của một món bánh dân gian dọc miền đất nước Việt Nam. Nhưng tôi tin bất cứ một món ăn nào cũng là vật chứa trong nó cả đặc trưng vùng miền, yếu tố tự nhiên, tính cách người dân bản địa, sản vật và dấu ấn văn hóa vùng miền. Miền Tây xứ dừa bánh bò, bánh da lợn, miền Trung nhiều lạc, mía hay có kẹo cu đơ, miền Bắc nhiều loại bánh từ bột nếp như bánh cốm, bánh gai…
Chiếc bánh quai vạc tuy nhỏ nhỏ xinh xinh lớn hơn ngón cái một tí nhưng mang trong mình dấu ấn của thiên nhiên. Nhân bánh được làm từ những con tôm tươi nhất được mang lên từ biển giàu tôm cá. Vỏ bánh làm từ tinh bột năng (bột lọc) vị dẻo mịn, trong veo là kết tinh của khí hậu khô nồng - nơi cây sắn (khoai mì dễ sống). Có thể nói nước mắm chính là linh hồn của bánh quai vạc nó cũng là linh hồn của Phan Thiết. Chiếc bánh ngọt mặn vị tôm, dẻo dai vỏ bột lọc nhưng nếu thiếu nước mắm chấm thì trở nên vô hồn, nhạt nhẽo. Nước mắm không chỉ là nước chấm, mà nâng lên vị mặn mòi, đậm đà của thức ăn vùng biển (nơi món bánh này ra đời). Để tròn vị, khi thưởng thức bánh quai vạc nước chấm thường được các dì các mẹ chuẩn bị khá tỉ mẩn. Nước mắm cốt nguyên chất quyện hòa cùng chút đường, chút tỏi, chút ớt, chút chanh. Tôi đồ rằng chén nước mắm như chính cuộc đời của những người phụ nữ lam lũ mắt nhìn về biển mỗi chuyến chồng ra khơi, úp mặt vào biển mà khóc khi những con tàu mờ trong bão. Họ đã sống cuộc đời có đầy đủ hương vị mặn ngọt của chua cay. Nước mắm không chỉ là nước chấm mà là là tâm hồn xứ biển.
Nói đến sự tinh tế khéo léo của người phụ nữ trong chế biến món ăn người ta hay nghĩ về người phụ nữ xứ Huế. Nhưng hãy nhìn những chiếc bánh quai vạc ta sẽ thấy rằng ở đâu trên đất nước này người phụ nữ cũng tinh tế và khéo léo. Có thể đôi bàn tay rám nắng, thô ráp chai sần, gân guốc vì gió biển, nắng biển, cá biển ấy lại cần mẫn nhào nặn bột cho đến khi dẻo mịn không dính tay để khi nặn bánh được đẹp, khi luộc lên để nguội ăn không cứng. Họ nâng niu từng cục bột nhỏ hình tròn rồi đặt vào giữa chiếc bánh con tôm đã rim. Sự chăm chút nằm trong khâu nặn bánh hình quai vạc làm sao không quá mỏng cũng không quá dày để luộc lên bánh không bị vỡ bị đục. Vỏ bánh bao bọc con tôm đỏ au mà vẫn giữ trọn vị ngọt nhờ không bị nước vào trong nhân. Đó là sự tỉ mỉ, mềm mỏng của những đôi tay chai sần thoăn thoắt thức dậy sớm ngồi làm bánh cho kịp buổi chợ.
Giữa cái nắng gió lồng lộng của biển Phan Thiết tiếng rao thật thà của những người phụ nữ bén duyên với biển nhiều hơn chợ nghe thân thương mà gần gũi làm sao. Những bước chân vừa rắn rỏi vừa thoăn thoắt lướt nhanh trên mặt đường như sóng lướt trên mặt biển. Trên gương mặt ram ráp hằn những vết chân chim luôn tươi cười với du khách. Chỉ đơn giản vậy thôi mà tôi ngờ rằng họ gánh cả hương vị mộc mạc của làng biển len lỏi vào từng góc phố tìm đến những mảnh tâm hồn đã no nê khám phá nơi mình gắn bó để tìm về xứ khác. Bàn tay thoăn thoắt lấy từng chiếc bánh, rắc tí hành phi, chan chút nước mắm ai thích có thể ăn kèm chả cá, chả lụa… Chỉ đơn giản vậy thôi mà ta thấy cả niềm tự hào về quê hương trong chiếc bánh dân dã đường phố. Người ăn, ăn cả tình yêu thương quê hương trong chiếc bánh quai vạc để mủi lòng thấy cay cay sống mũi không phải vị ớt mà vì nhớ nơi mình sống cũng có những loại thức ăn, quà bánh đậm vị thân thương mà đôi khi ta lơ đễnh lướt qua.
Bánh quai vạc cái tên gần gũi mà thân thương như chính những con người dân tạo ra nó. Những con người quen với biển, sống với biển, biết ơn biển. Chiếc bánh không còn là món ăn quen thuộc mà ẩn chứa trong mình dấu ấn văn hóa, vẻ đẹp hồn hậu của con người. Khi ta ăn một món ăn là ta đang được sống được tắm táp trong dòng chảy văn hóa con người từ những điều quen thuộc giản dị. Thời gian có thể thương hải tang điền nhưng tôi tin chẳng có gì bị lãng quên khi nó sống trong mạch nguồn văn hóa. Người ta vẫn gọi bún bò Huế dù Huế đã từng là một phần của Bình Trị Thiên, vẫn là bánh ít Bình Định chứ không có bánh ít Nghĩa Bình. Cũng vậy thôi nhắc đến bánh quai vạc thì ta vẫn gọi bánh quai vạc Phan Thiết. Chỉ ngần ấy thôi cũng đủ cho ta cảm nhận vẻ đẹp và sức sống của ẩm thực dân gian.