Nghề kéo lưới rùng ở quê hương Phan Thiết

23/01/2024 14:22
288

NGUYỄN VĂN ANH


Ngư dân kéo lưới rùng

 

Nghề kéo lưới rùng là một nghề bắt cá ven biển rất lâu đời của ngư dân nước Việt, đây là loại lưới chỉ đánh cá ven bờ, kéo lưới bằng tay, gắn liền với thuở hồng hoang khi ghe thuyền người Việt còn thô sơ chưa dám vươn mình ra biển lớn.

   Đây là nghề kéo lưới mà ai cũng có thể tham gia kéo được, chỉ cần một dàn lưới rùng với một chiếc ghe nho nhỏ, hoặc một thúng chai be bé là người ta có thể tiến hành đi kiếm cá được.

   Cách thức của bà con ngư dân làm là, sau khi cố định một đầu lưới trong bờ, rồi đem ra khỏi biển khoảng 300 - 400m rồi từ từ thả lưới xuống, họ cố gắng tạo thành một vòng cung đủ rộng, rồi đem đầu mành lưới còn lại vào bờ để mọi người kéo.

   Lúc này, trong bờ bà con chia ra làm hai hàng, mỗi hàng là một đầu lưới. Cứ thế mà kéo, cho đến khi lưới vào hết trong bờ. Những con cá nằm trong vòng cung của lưới, sẽ không thoát ra ngoài và bị kéo hẳn vào bờ. 

   Những con cá không vượt ra khỏi lưới, ngoài lý do thân cá lớn hơn mắt lưới, thì còn nguyên do khác là màn lưới đã được sơn màu, như một bức tường chắn làm cá hoảng sợ không dám đâm đầu để thoát qua bên kia màn lưới. Đây cũng là một lý do mà sau này bà con dùng lưới cước với mắt lưới lớn khoảng 0,5cm thì cá nhỏ hơn cũng không thể thoát ra khỏi được.

   Lúc đầu, lưới rùng được làm bằng dây nhợ, mắt lưới lớn hơn lưới mùng một xíu, tức là khoảng 1,5 – 1,8 ly, sau khi mua về bà con nhuộm màu đỏ, xanh, vàng tùy thích. Nhược điểm của dây nhợ là nặng kéo, đó là lý do sau này bà con ngư dân chuyển sang bằng cước lưới sâm làm lưới rùng cho nhẹ kéo, mắt lưới cũng vậy, màu sắc cũng y chang. Hiện tại bà con lại sử dụng lưới cước mắt lưới khoảng 0,5 ly cũng với lý do là kéo cho nhẹ tay.

   Ở Phan Thiết những năm đầu thế kỷ 20 và kéo dài đến nhiều thập niên sau, nghề lưới rùng là nghề đánh bắt cá chủ yếu và phát triển phồn thịnh nhất là ở làng Đức Long (còn làng Đức Thắng thiên về nghề Chà và Giã), ngoài ra còn có các địa phương khác như Mũi Né, hoặc xóm Bình Trị, xóm Biển, xóm Trạm, Ke Cả (thuộc Tiến Thành ngày nay) cũng tham gia.

   Lúc này, chủ lưới rùng thường là người có ghe nên là người giàu mới có, người kéo trong bờ gọi là “bạn” những người này thường là người nghèo thiếu trước hụt sau, mượn tiền ăn trước rồi kéo lưới sau trả nợ, cũng giống như những “bạn” đi ghe hay đi lặn sau này vậy. Ngoài ra cũng có người phụ kéo nhưng chủ yếu là kiếm cá ăn, trong số này cũng có lúc có những bà con vùng nông thôn tới tham gia. 

   Lý do chính mà từ thập niên 60 đổ về trước, bà con ngư dân chỉ đánh lưới rùng ven bờ là vì ghe còn thô sơ phải chèo bằng tay và dùng buồm, chưa có động cơ gắn vào để ra khơi. Lúc này, để đem lưới rùng ra khỏi bờ thả phải dùng đến 4 tay chèo lực lưỡng. Tới những năm đầu thập niên 60 đổ lại đây, ghe thuyền mới được trang bị động cơ gắn vào.

   Thời gian ấy, cũng như một thời gian dài đến cuối thập kỷ 70, lưới rùng là lưới cung cấp cá cơm chính cho các hãng nước mắm danh tiếng vang bóng một thời của quê hương Phan Thiết như công ty Liên Thành hiệu con voi, hãng nước mắm Hồng Hương của bà Chín Lâu, Hồng Sanh ông Dương Quang Thiết, Hoàng Hương của bà Cửu Sanh, nước mắm Hồng Xuyên, nước mắm Kiết Tường… (nước mắm Hồng Xuyên là của song thân cụ bà Ni trưởng Thích nữ Huyền Tông, chùa Liên Hoa Ni tự cũng do ông bà nước mắm Hồng Xuyên cúng dường năm 1962, để cho con gái mình tu tập, sau này Ni trưởng Thích nữ Huyền Tông là viện chủ tổ đình Bình Quang Ni tự, có thời gian quản lý trường Bồ Đề).

   Cũng cần nói thêm lúc này, người có ghe chưa chắc đã làm nghề lưới rùng, bởi họ chuyên làm nghề vận chuyển cá khô, nước mắm (ghe bầu) được chứa trong các tĩn hình bánh ú 3,5 lít được làm bằng đất rồi đem nung nóng (lò tĩn) ra các thị trường khác tiêu thụ. Bên cạnh đó cũng có ghe chuyên vận chuyển rau quả về Vũng Tàu, Sài Gòn bán hay cũng có những ghe thu mua cá rồi bán lại đầu nậu gọi là “chạy lựa”.

   Cho tới những năm trước 1975 bà con ngư dân Phan Thiết vẫn còn buôn bán và vận chuyển bằng đường thủy, lý do là chiến tranh khốc liệt, đường bị “đắp mô” đầy nguy hiểm và rủi ro cho chuyện kinh doanh buôn bán của họ. 

   Khi còn bé, mỗi khi mùa cá cơm về, chiều chiều khi biển êm, gió lặng thấy bà con đem lưới rùng ra kéo, là tôi nhảy ra biển tắm và xem chơi, lúc đó thấy nam nữ cùng hò nhau kéo lưới vui lắm, người này đụng người kia la oi ói. Bờ biển lúc đó đang cạn, đông người, không khí thật náo nhiệt ồn ào của bà con xứ biển. 

   Khi lưới vào bờ, tôi thích nhất là xem cá trong lưới, cảm giác thật vui sướng nhìn các chú cá đủ màu vẫy vùng, bên cạnh cá cơm các loại như cá cơm đỏ, cá cơm sọc tiêu và cá cơm than còn có các chú “cá khách” khác loại xấu số và vài chú mực, ghẹ, cá nóc xen lẫn vào, ngày nay cảm giác thần tiên ấy vẫn còn, thỉnh thoảng xuất hiện cả trong những giấc mơ.

   Ngày xưa, nghề lưới rùng rất thịnh, lý do thật dễ hiểu bởi lúc đó cá còn nhiều, thiên nhiên ưu đãi, môi trường tốt lành. Ngày nay, đáng buồn thay lưới rùng lại bị mai một, ít ai làm nữa và có nguy cơ bị mất đi, bởi không còn cá ven bờ như trước đây nữa và nghề này chỉ còn hoạt động chút ít ở Mũi Né và Tiến Thành mà thôi.

   Nhìn bà con lúc kéo lưới rùng vào, chỉ có một nhúm cá nhỏ gánh ra chợ, chợt nhớ đến ngày xưa ở thời điểm cực thịnh của mùa cá cơm (bắt đầu giữa tháng 6 âm lịch và kéo dài đến tháng 9 tùy thời tiết), cá đánh đem về “đổ đống” “đầy bãi”, ngoài biển ngợp một màu đen sẫm của những đàn cá, như là ân huệ mà biển khơi đã ban tặng cho quê hương. 

   Nghĩ đến lưới rùng một thời đã nuôi sống bao thế hệ ngư dân, là niềm vui, là cơm áo và hạnh phúc của nhiều gia đình, góp phần làm nên thương hiệu nước mắm Phan Thiết nổi tiếng trên thương trường cả nước, mà ngày nay có thể bị mất đi, tôi không khỏi chạnh lòng.

   Lưới rùng không chỉ là tên của một loại lưới nữa, mà bây giờ nó còn là tên của nỗi nhớ, nỗi nhớ mang tên hoài niệm, luyến tiếc, sự phồn thịnh về một thời đã qua.

   Không riêng gì lưới rùng, mà nói chung về nghề biển cũng vậy, ngày nay bà con ngư dân phải có tàu lớn đi xa, dài ngày bởi cá gần bờ còn rất ít, thiên nhiên đang bị cạn kiệt dần, bờ biển bị thu hẹp, môi trường bị xâm hại mạnh. 

   Ngư dân ngày xưa ở Phan Thiết, chỉ chuyên nghề đi biển, họ quan niệm “văn chương không bằng xương cá mòi” cho nên ít chịu cho con cái ăn học, vì thế ngày nay khi “biển đói”, họ phải làm thêm nghề phụ khác như thợ hồ, vá lưới thuê, đi câu, lặn sò với bao hiểm nguy để đặng kiếm cơm thêm. 

   Tôi thấy rõ lúc trước, khi nghề biển “có ăn” thì vùng nông thôn ở các huyện lân cận Phan Thiết vẫn còn nghèo, còn lúc này trái thanh long đã đưa cuộc sống vùng nông thôn trở nên giàu có, thì anh ngư dân lại lâm cảnh “biển đói” triền miên, nghĩ thật tội nghiệp.

   Ngày xưa, nghề biển thịnh ai cũng vui vẻ, xây nhà xây cửa, chủ ghe và tài công đều “có giá” trong xã hội, ngày nay khi hỏi lại chỉ nhận được một cái lắc đầu ngao ngán.